Quý anh chị thân thương,
Lâu lắm rồi hôm nay mới có dịp gởi bài đến quý anh chị đọc cho vui. Đây là những bài của các ĐGM Việt Nam chia sẻ về ơn gọi của mình nhờ các bậc sinh thành, rất giản dị nhưng lại đóng góp tích cực vào hình thành ơn gọi của con cháu mình. Chắc chắn thời đại của chúng ta không thể áp dụng theo kiểu các cụ ngày xưa, đặc biệt là với đời sống thông tin hiện đại và với giới trẻ tại Canada này.
Rất mong nhận được phản hồi của quý anh chị sau khi đọc những bài suy tư này.
Em. Teresa Veronica Hằng, sss
Các Đức Giám mục của chúng ta thuở thiếu thời đã được sống trong một gia đình đạo hạnh, gương mẫu và siêng năng việc Tông đồ; các ngài đã được cha mẹ hoặc người thân hết lòng cổ vũ và vun đắp ơn gọi, được hướng dẫn đi vào con đường tận hiến, là hình ảnh về tinh thần dấn thân và sống vị tha nhân…
Những dòng ngắn hồi ức về ngày còn thơ của những vị chủ chăn đáng kính được trình bày trong phần này vừa dí dỏm, rất đời thường nhưng cũng đong đầy nhiều bài học về lòng đạo đức để mỗi tín hữu chúng ta có dịp suy tư, đối chiếu với đời sống gia đình mình…
MẸ QUẢ CẢM VÀ NHẪN NẠI
đến chừng nào
ĐGM GIUSE CHÂU NGỌC TRI
Quá nửa đời người mà con cứ như đứa bé, mỗi lần nghĩ về Mẹ là nước mắt cứ chực rưng rưng. «Tuổi già như trái chín cây» của Mẹ đã làm con nơm nớp lo lắng đủ điều. Biết Mẹ trông tin con lắm, Mẹ hãy nghe con kể chuyện Mẹ nhé!
Bắt đầu từ đâu đây Mẹ ơi?! Nếu con có thể kể về những tháng ngày trong bụng Mẹ hoặc thời thơ ấu hạnh phúc trên gối Mẹ thuở nào, thì quả là con không nói về những kinh nghiệm của chính mình, nhưng về nột cậu bé nào khác đấy. Thế nhưng con như có linh cảm rằng mình đã nghiệm được phần nào tình ý của Mẹ ngay từ cái thuở ban sơ ấy. Biết bao lần trong đời con đã tự hỏi: việc ngắm nhìn một bà mẹ ột ệt với bào thai hay một chú bé đang say sưa ôm đôi bầu sữa, phải chăng là một điều bất xứng!? Nhưng thú thật, con đã chẳng vượt qua được cơn cám dỗ này. Con muốn hình dung lại tuổi thơ của mình và thậm chí còn ước mơ trở về cái thời bé bỏng ngày xưa. Mẹ ơi, vì hình ảnh sống động ấy đã nung nấu trong trái tim con một tình yêu tha thiết dành cho Mẹ. Cánh chim bay nhảy khắp bốn phương trời hôm nay đã từng yếu đuối mong manh như thế trong cung lòng vòng tay của Mẹ. Người Việt mình thường ví von: «Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra». Thật vậy, con nào có thể chứa đâu cho hết, nói mấy cho vừa. Con chỉ muốn nhắc lại nơi đây một vài kỷ niệm khó quên để biết rằng, Mẹ luôn có mặt bên con trong đời, bằng sự tận tâm chăm sóc hay tin tưởng nguyện cầu, góp phần quan trọng hình thành và nuôi dưỡng nơi con lý tưởng ơn gọi.
Con lên tám tuổi, trước ngày rước lễ lần đầu, Mẹ đã bị cha sở quở trách giữa nhà thờ vì có thằng con trai đọc kinh quá lớn tiếng, lấn át hết mọi người, thậm chí đọc cả phần dành riêng cho linh mục. Sở dĩ như thế là vì con đã thuộc lòng hầu hết những bài kinh dài vắn từ thuở còn đưa võng nằm nôi, Mẹ đọc ngân nga đưa con vào giấc ngủ. Mẹ chẳng bao giờ quên nhắc con phải đọc một câu kinh nào đó trước mỗi món quà, khi ăn cơm và lúc đi ngủ. Mẹ cũng đã mất nhiều thời giờ giúp con chuẩn bị và sốt sắng tham dự những thánh lễ ‘dỏm’ con dâng bằng chăn màn, khoai khô và nước chè đậm. Mẹ tập cho con trang trí bàn thờ và không quên ngắt những cánh hoa dại cài lên áo con, sau lưng và trước ngực. Mẹ đạ chẳng bật cười khi há miệng chắp tay đón nhận lát khoai khô mà con vừa trao, vừa dám tuyên bố với Mẹ rằng: ‘Đây là Mình Thánh Chúa’, Mẹ còn quỳ gối cúi đầu làm dấu thánh giá khi con ‘ban phép lành cuối lễ’… Nhiều lần ‘làm lễ’ quá cẩu thả, con bị Mẹ phạt, bắt làm lại từ đầu. Hôm nào đi vắng suốt ngày, khi trở về, Mẹ thường hỏi: «Hôm nay ở nhà con đã dâng lễ chưa?». Có phạm thánh không, Mẹ ơi, sao con thấy dễ thương quá! Lớn hơn một chút, khi con được phân công giúp lễ, dù mấy bận bịu, không bao giờ Mẹ vắng mặt ở nhà thờ. Chính tay Mẹ đã chuẩn bị y phục và chải đầu rẽ ngôi cho con, đưa con đến tận cửa phòng thánh, rồi vội vàng tìm chỗ đầu hàng ghế giữa lòng nhà thờ để dễ bề nhìn ngắm con. Những lúc ấy, nhìn bàn thờ thì ít, Mẹ nhìn con nhiều hơn, Mẹ con mình hiểu nhau qua ánh mắt, phải thế không? Còn nữa, con còn nhớ những đồng bạc giấy mới tinh Mẹ đã gom góp suốt tuần và trang trọng trao vào tay con mỗi lần đi tham dự thánh lễ thiếu nhi ngày Chúa Nhật. Mẹ đã tập cho con ý thức và niềm vui chung góp, đến độ có lần con đã không chịu đi dự thánh lễ vì Mẹ đi vắng chẳng ai cho tiền mới tinh như của Mẹ.
Mẹ ơi, những việc thật nhỏ đó, Mẹ đã làm với tất cả tâm tình, niềm tin và hoài bão, Mẹ đã đầu tư cho con trai Mẹ những trương mục thiêng liêng vô giá. Mẹ đã khắc ghi vào tâm can đứa trẻ những hình ảnh và âm thanh đầu tiên rất linh nghiệm đến suốt đời không thể xóa nhòa. Con đã vào Tiểu Chủng viện ở tuổi mười hai, lên Đại Chủng viện khi quê hương vừa hòa bình. Và không biết là may mắn hay rủi ro, khi mãn Đại Chủng viện, con bước vào đời bằng bảy năm đợi chờ trong mái ấm gia đình, được chia sẻ tận cùng với Mẹ Cha nếp sống nông dân thấm mồ hôi nước mắt, nhưng cũng đầy những kỷ niệm và những bài học quý giá cho cuộc đời.
Suốt những năm tháng dài nhọc nhằn đó, hình ảnh người phụ nữ đẹp nhất trong con vẫn là Mẹ. Sợ con ngã lòng thất vọng, Mẹ luôn tận tụy với con như một đứa trẻ, cho dù con đã quá tuổi trưởng thành. Mẹ đã dành cho con rất nhiều ưu tiên trong những phương tiện nhỏ hẹp của gia đình lúc ấy. Con còn nhớ mỗi lần vào bàn ăn, Mẹ luôn ưu ái bới cho con những bát cơm trắng. Thấy con ngần ngại chối từ, Mẹ cắt nghĩa rằng ăn cơm độn khoai sắn sẽ quên hết những gì đã học. Mẹ ơi, có thật thế không? Sao nhiều bài học con đã trót quên, còn tình Mẹ thì ngày thêm sâu đậm.
Giữa bao điều con không thể quên là câu chuyện về ba ổ gà mái. Năm ấy trong nhà chỉ còn có Cha, Mẹ và con, Mẹ dọn bữa cơm tối ngoài sân khi nắng chiều vừa tắt. Nhìn ba con gà mái tơ đang tranh nhau những hạt cơm rơi rớt, nghĩ rằng để Cha Mẹ vui, con đã cao hứng đề nghị: «Con trắng thuộc về Cha, con nổ là của Mẹ, phần con cô mầu vàng. Con sẽ làm ba cái ổ rơm trên giàn chuồng heo, gà ai đẻ nhiều trứng nhất, người ấy thắng cuộc». Ngược lại, như để chiều ý con, cả Cha lẫn Mẹ đều vui vẻ hưởng ứng cái trò trẻ con ấy. Chỉ mấy hôm sau, cả ba con gà đều đồng loạt nhảy ổ và bắt đầu cho trứng. Con lãnh nhiệm vụ kiểm trứng mỗi chiều và thông báo kết quả cho cả nhà vào giờ cơm tối. Tuần lễ đầu, ba ổ trứng luôn sít soát bằng nhau: một, hai rồi ba trứng. Cả ba con mái bắt đầu được nuôi ăn kỹ hơn; trong giờ cơm, gà của ai quấn quýt bên chân người ấy. Sang tuần lễ sau, ổ gà vàng của con đã vượt lên dẫn đầu, dần dần bỏ xa, rồi gấp đôi hai ổ gà của Cha và Mẹ. Con rất thích thú về ổ gà của mình và hay đùa rằng mình có tay nuôi gà lấy trứng, không sợ thất nghiệp. Dù thua, Mẹ chẳng thèm ‘ganh tỵ’ với con tí nào, lại hay tìm dịp biện luận: «Điều ấy chứng tỏ tương lai của con còn sáng sủa lắm, chứ không hoàn toàn tối tăm đâu, đừng nản lòng!» Cho đến một ngày, con bất ngờ khám phá ra sự may mắn của mình. Tưởng con đã đi nghỉ trưa như thường lệ, Mẹ trèo lên chỗ để ba ổ gà. Chợt nhìn thấy, con dừng lại, nép mình sau cánh cửa để quan sát. Mẹ nhẹ nhàng lấy một quả trứng nơi ổ gà của Mẹ, cẩn thận đặt vào ổ gà của con, rồi vội vàng bước xuống với một nụ cười mãn nguyện. Thì ra Mẹ đã làm như thế Mẹ ơi! Con bắt quả tang sự ‘gian lận’ của Mẹ rồi! Con chạy cắm đầu vào phòng và trên giường nằm khóc tức tưởi, mặc cho hạnh phúc, cảm xúc dâng trào. Để niềm vui của Mẹ được trọn vẹn, vào cuối cuộc chơi, con đã im lặng nhận lấy phần thắng mà nghe sống mũi cay xè, cất giấu tận đáy lòng hình ảnh cảm động mình đã nhìn thấy. Cha về nhì với vẻ mặt không quen nói dối vì đã đồng tình để ổ gà của mình chịu chung số phận.
Mẹ ơi, Mẹ luôn có đủ hy sinh để yêu thương, có đầy sáng kiến để chăm sóc. Mẹ quả cảm nhẫn nại đến chừng nào! Mẹ đã truyền cho con sự sống, hướng dẫn con bao ý tứ tâm tình. Và trong những ngày tháng khó khăn nhất của cuộc đời, tình mẫu tử thiêng liêng dịu dàng đó đã dấy lên trong con sức mạnh chiến đấu, niềm tin chiến thắng. Ba ổ trứng đã biến thành ba bầy gà con xinh xắn, xúm xít chút chít quanh sân nhà. Cuối cùng, lũ cháu đàn con của chúng đã góp phần làm tăng thêm niềm vui cho mọi người quanh mâm bàn ngày con trở về ‘vinh quy bái tổ’, hai hôm sau khi chịu chức linh mục.
Ngày lễ tạ ơn tại quê nhà, trời đã vào đông mà vẫn đầy nắng ấm. Con xúng xính trong chiếc áo lễ mới màu vàng có thêu mấy chiếc hoa hồng đó thắm đầy gai, cũng sau lưng và trước ngực. Khi con đến cho Mẹ chịu lễ, cầm Mình Thánh Chúa trong tay, không ai nói với ai mà cả hai cùng nức nở, vì hồi tưởng lại những lát khoai ngô ngày nào… Cũng chính hôm ấy, giữa hàng ngàn tín hữu đưa tay làm dấu khi con ban phép lành đầu tay cuối lễ, con biết chắc chắn Mẹ là người hạnh phúc nhất, vì đã từng giúp con nuôi nấng ấp ủ giấc mơ thánh thiện này từ khi còn tấm bé, bằng cả đời hy sinh cầu nguyện.
Lời Kinh Gia Đình
ươm mầm nên lòng đạo đức
ĐGM Anphong Nguyễn Hữu Long – Phụ tá GP Hưng Hóa
Tôi lớn lên trong một gia đình nghèo, đông con, cha mẹ và anh chị em đều không có gì nổi bật về mặt xã hội. Cha có khi đi làm xa, lâu lâu mới về, mẹ ở nhà lo việc nội trợ, chăm sóc con cái. Anh chị em chúng tôi hấp thụ một nền giáo dục rất tốt từ cha mẹ, được dạy dỗ từ những điều rất nhỏ về nhân bản, như gọi dạ bảo vâng, đi thưa về trình, kính trên nhường dưới, anh em hòa thuận thương yêu nhau. Về mặt đức tin, chúng tôi lớn lên tại giáo xứ Chánh tòa Đà Nẵng, được các linh mục tốt lành và những nữ tu dòng thánh Phaolô dẫn dắt. Ngày Chúa nhật, ban sáng học giáo lý và dự lễ thiếu nhi, ban chiều sinh hoạt các hội đoàn như Hiệp Hội Thánh Mẫu, Hùng Tâm Dũng Chí, Hướng đạo sinh. Từ hai môi trường gia đình và giáo xứ tốt đẹp như thế, chúng tôi bước vào đời với hành trang nhân bản và đức tin trưởng thành.
Tôi có người anh đi tu, mỗi dịp Tết hay hè, anh từ Qui Nhơn về nghỉ với gia đình, thấy anh được mọi người quý mến, tôi nảy sinh ý định lớn lên cũng sẽ đi tu. Khi giáo phận tổ chức thi tuyển vào Tiểu Chủng viện, ba mẹ hỏi có muốn đi tu không? Tôi trả lời có, mặc dù chưa hiểu rõ đi tu là thế nào.
Thế là mẹ dẫn tôi đến gặp cha xứ Giuse Lê Văn Ấn (sau này làm Giám mục Xuân Lộc) để xin ngài ký giấy. Ngài nhìn tôi sau cặp kính cận rồi nói: «Thằng này đi tu được, để tôi nhận làm con». Kỳ thi đó, tôi trúng tuyển lớp đầu tiên của Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Đà Nẵng. Trong số 200 thí sinh, Chủng viện nhận 120, lên Đại Chủng viện còn 33, đến ngày làm linh mục thì còn được 6 người. Tôi dần khám phá ơn gọi của mình nhờ gương sáng của các linh mục, tu sĩ mà Chúa đặt để trên con đường mình đi.
Tôi xác tín gia đình góp phần quan trọng vào hành trình ơn gọi của con cái. Tôi còn nhớ một vài chi tiết tưởng chừng nhỏ, nhưng có ảnh hưởng lớn đến bản thân, đó là cha mẹ tôi vẫn thường nhắc các anh chị em ở nhà sống tốt, đừng để ảnh hưởng cho ơn gọi của các em đi tu: «Gia đình có con cái đi tu, thì mọi người khác cũng như đi tu theo!» Một điểm son nữa là gia đình tôi luôn đọc kinh tối, và trước khi kết thúc còn đọc thêm ba kinh Kính Mừng để cầu nguyện cho hai anh em đang đi tu. Sau 1975, cha mẹ đưa gia đình đi kinh tế mới ở miền Nam, còn chúng tôi ở lại giáo phận Đà Nẵng, tôi nhớ rằng cuối mỗi lá thư gởi thăm, cha tôi đều viết thế này: «Ba mẹ và các em hằng cầu nguyện cho các con được trung thành với ơn gọi.» Những điều đó khích lệ chúng tôi rất nhiều trên con đường theo Chúa.
Từ khi làm linh mục, tôi không còn được hưởng niềm vui đoàn tụ gia đình ngày đầu Xuân, vì mình phải ở với đoàn chiên. Trong giờ phút thiêng liêng Giao thừa và ba ngày đầu năm, tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại cảnh sum họp gia đình thời còn bé, vài ký ức tới nay vẫn in sâu đậm: giúp mẹ gói bánh chưng, canh nồi bánh đêm khuya, dâng Năm Mới vào phút Giao thừa và thánh lễ minh niên, bữa ăn đầu năm thường không thể thiếu bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành… Bây giờ, ở những giây phút ấy, tôi đến trước Chúa Giêsu Thánh Thể để dâng Năm Mới, dâng giáo phận, dâng những người thân yêu còn sống hay đã qua đời cho Chúa.
Tôi xác tín rằng, gia đình Công giáo được xây dựng trên nền tảng lòng đạo đức. ĐTC Piô XII đã nói: «Một gia đình cầu nguyện là một gia đình hạnh phúc». Hình ảnh gia đình cùng đến trước bàn thờ Chúa là hình ảnh đẹp nhất. Vì thế, tôi vẫn khuyến khích các gia đình duy trì hoặc tái lập giờ kinh tối. Tuy cuộc sống hiện nay có nhiều lôi cuốn khiến họ bỏ qua việc cầu nguyện chung, nhưng gia đình nào có lòng đạo đức thì vẫn tìm được giờ khắc thuận lợi để cùng làm việc này. Khi còn làm cha sở Trà Kiệu, tôi tổ chức cho các gia đình đồng loạt đọc kinh chung vào lúc 8 giờ tối. Mọi người tạm dừng mọi công việc để cầu nguyện trong khoảng 10 phút, khi nghe hồi chuông từ nhà thờ vang lên. Lúc ấy đúng là «nhà nhà cầu nguyện, người người cầu nguyện». Bà con giáo dân hưởng ứng rất tốt, tạo nên bầu khí đạo đức cho cả xứ. Bây giờ, thói quen đọc kinh gia đình đã mai một hoặc bị coi thường. Nhiều gia đình chẳng bao giờ cầu nguyện chung với nhau, thế thì bàn thờ trong gia đình chỉ còn là một thứ trang trí không hơn không kém!
Ước mong sao các gia đình Công giáo lấy lại việc đạo đức bình dân và bình dị này…
MẢNH VỤN KÝ ỨC VỀ GIA ĐÌNH TÔI
ĐGM Matthêô Nguyễn Văn Khôi – GP Qui Nhơn
Tôi may mắn được sinh ra tại Gò Thị, giáo phận Qui Nhơn, một giáo xứ cổ kính miền quê có truyền thống đạo đức lâu đời, có các thánh tử đạo, có nhiều ơn gọi tu trì: giám mục, linh mục và tu sĩ nam nữ. Truyền thống đạo đức của giáo xứ ảnh hưởng rất nhiều đến bầu khí của mỗi gia đình, và ngược lại, việc giáo dục của các gia đình góp phần làm cho truyền thống đạo đức của giáo xứ được bảo tồ và phát triển. Gia đình Công giáo là cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương, môi trường giáo dục nhân cách và đức tin. Trong thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam gởi các gia đình Công giáo ngày 20 tháng 11 năm 2016 có đoạn viết: «Những gia đình này đã và đang góp phần rất lớn vào đời sống Hội Thánh bằng việc cống hiến cho Hõi Thánh những Kitô hữu nhiệt thành và đạo đức, vun trồng ơn gọi linh mục và tu sĩ. Bản thân các giám mục chúng tôi cũng được lớn lên trong các gia đình đạo đức, nhờ đó hạt giống ơn gọi được nuôi dưỡng và lớn lên trong cuộc đời» (số 2)
Mãi cho đến hôm nay, tôi vẫn nhớ như in những bài học tuyệt vời thời thơ ấu tại gia đình. Khi tôi vừa lên bảy, gia đình tôi thật ít ỏi: chỉ có bà ngoại, cha mẹ và tôi sống trong một ngôi nhà tranh vách đất. Anh trai tôi mất sớm vì bệnh đậu mùa khi vừa được 5 tuổi. Ba năm sau tôi mới được sinh ra. Còn em trai tôi thì mãi đến khi tôi lên tám tuổi nó mới ra đời. Vào thời điểm của những ký ức mà tôi sắp kể thì tôi là đứa con duy nhất trong gia đình, được đón nhận trọn vẹn ảnh hưởng tốt lành từ bà ngoại và cha mẹ là những tấm gương đạo đức.
Xóm tôi là xóm đạo toàn tòng, nên những đứa trẻ cùng trang lứa với tôi thường xuyên đến nhà thờ đọc kinh tối và thuộc khá nhiều kinh. Ngay từ nhỏ tôi đã có năng khiếu vẽ và nặn tượng. Tôi thường ra ruộng lấy đất sét về nhà nặn tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh theo mẫu tôi thấy trong nhà thờ. Những tượng bằng đất thô sơ và được tô điểm bằng những cây bút chì mầu cũng đủ cho các bạn tôi trầm trồ thán phục và thường xuyên đến xem. Thế là chúng tôi nảy sinh ý tưởng tổ chức những cuộc rước kiệu với những bức tượng ấy trên con đường ngang lối tắt trong xóm. Số bạn bè tham gia có đến mười đứa, đủ để tạo thành một đoàn rước kiệu mini. Chúng tôi vừa đi vừa đọc những kinh quen thuộc cách nghiêm trang sốt sắng.
Một hôm, có thằng bạn ngỏ ý xin đổi lấy một bức tượng của tôi bằng hai cây nến trắng. Tôi đồng ý liền, vì việc nắn tượng đối với tôi không có gì khó, nhưng hai cây nến thì tôi làm gì có tiền để mua. Đúng hẹn, thằng bạn đưa hai cây nến đến và tôi giao cho nó một bức tượng nó thích. Sau khi được hai cây nến, tôi vội chạy vào nhà, bắc ghế đặt nến lên bàn thờ trên đầu tủ. Tôi vô cùng thích thú khi thấy trên bàn thờ giờ đây có hai cây nến mới, lại do ‘công’ mình làm ra. Bởi từ trước đến nay, cứ mỗi lần đọc kinh tối, cha tôi đặt lên bàn thờ một cây đèn dầu nhỏ có ngọn lửa yếu ớt, gọi là đèn ‘hột vịt’, do bóng đèn giống như quả trứng vịt. Đèn được thắp bằng dầu hỏa nên ít tốn kém. Chưa bao giờ tôi thấy trên bàn thờ có hai cây nến xinh đẹp như hôm nay, vì gia đình không có đủ tiền đủ mua mỗi ngày. Đặt hai cây nến lên bàn thờ xong, tôi cứ đu đưa trên võng trước bàn thờ để ngắm nghía và cũng có ý chờ bà ngoại, cha hoặc mẹ tôi vào nhà để khoe. Quả thật, một lúc sau, bà ngoại tôi bước vào, tôi liền chỉ cho bà xem hai cây nến trên bàn thờ. Bà hỏi :
- Hai cây nến ở đâu ra vậy con? Tôi vội vàng khoe:
- Thưa ngoại, vừa rồi có thằng G đem đến hai cây nến và xin đổi lấy bức tượng của con đó ngoại. Ngoại thấy được không? Giờ kinh tối nay bàn thờ nhà mình sẽ thật sáng đó ngoại.
Tôi chờ đợi lời khen của bà hay ít là một cái xoa đầu, nhưng thật hụt hẫng khi bà nghiêm mặt:
- Con phải đem hai cây nến này trả lại gấp cho thằng G, bởi vì cha nó làm ông từ trông coi nhà thờ, nên hai cây nến đó là của người ta dâng cúng cho nhà Chúa mà nó lén lấy, chứ nó làm gì có mà đổi cho con.
Tiu nghỉu, tôi nặng nề bắc ghế leo lên lấy hai cây nến xuống, đem trả lại cho thằng bạn và nói lý do như ngoại tôi đã nói. Nó nhận lại hai cây nến, nhưng bức tượng của tôi thì nó không chịu trả. Thế là mất tất cả, nhưng tôi lại được một bài học đầu đời thật hay.
Câu chuyện thứ hai liên quan đến cha tôi. Như tôi đã kể, lúc ấy tôi thường xuyên vẽ hay đắp tượng thánh. Điều khó khăn nhất đối với tôi là tạo ra con mắt. Các bức tượng thường nhỏ, nên con mắt không lớn hơn hạt lúa. Dụng cụ duy nhất tôi có thể dùng để tạo ra con mắt chính là móng tay út của mình, nhưng cũng phải rất tỉ mỉ. May thay, gần nhà tôi có một ông chú tên X. Chuyên nghề đắp tượng. Tôi thường đến nhà ông để xem và bắt chước. Tình cờ tôi phát hiện ra một vật ông dùng để tạo ra con mắt. Đó là một khúc kẽm gai được đập dẹp một đầu rồi uốn hơi cong như hình chiếc muỗng, đầu kia được gắn vào một tay cầm bằng tre. Khi muốn tạo ra con mắt cho bức tượng, ông chỉ cần ấn mạnh đầu cong vào khuôn mặt của bức tượng, một lần sấp, một lần ngửa, thế là tạo được hai mí mắt. Thật là đơn giản, nhưng với tuổi của tôi, tôi không thể tạo ra một dụng cụ như thế được, và toi đã lén ‘chôm’.
Có được bửu bối tuyệt vời trong tay, tôi quay về nhà và vội vàng áp dụng ngay vào bức tượng tôi đang làm giang dở. Kết quả thật tốt khiến tôi hết sức vui mừng. Nhưng đang lúc ấy, cha tôi chợt tới. Khi thấy vật dụng tôi đang cầm ở tay, ông biết ngay nó là của ai. Cha tôi hỏi, tôi lúng túng và chỉ trả lời ấp úng. Biết ngay đây là của ăn cắp, cha tôi vội dẫn tôi đến nhà ông chú đắp tượng và bảo tôi trả lại cho chú cùng với lời xin lỗi. Nhưng rất bất ngờ, ông chú nói với cha tôi:
– «Không sao đâu anh! Tôi thấy thằng nhỏ có năng khiếu đó. Thôi, tôi cho nó, tôi sẽ tạo ra cái khác cũng được mà».
Một bài học về sự trung thực từ một người cha vốn bản tính đơn sơ thật thà khiến tôi nhớ mãi. Lần này tôi lại được tất cả!
Về phần mẹ tôi, bà là người mẹ hiền lành đạo đức, ít lời ăn tiếng nói, nhưng rất gần gũi với tôi trong việc giáo dục cũng như trong ơn gọi tu trì. Tôi có rất nhiều ký ức tốt đẹp về bà, trong phạm vi ngắn ngủi của bài chia sẻ này, tôi không thể kể ra hết. Bà vẫn giữ trong lòng những kỷ niệm về thời thơ ấu của tôi, nhất là mối liên hệ giữa thuở ấu thời ấy với ơn gọi linh mục của con. Sau này tôi có một đứa cháu kêu bằng bác, tức là con trai của em tôi và cháu nội của bà. Lúc còn nhỏ, nó cũng thường bày biện bàn thờ ở một góc vườn và đọc kinh cầu nguyện như tôi lúc trước. Vì thế, khi tôi đã làm linh mục, một hôm bà nói với tôi:
- «Mẹ thấy thằng bé giống con hồi còn nhỏ, con hãy hướng dẫn nó làm linh mục như con đi».
Tôi vâng lời mẹ, và hôm nay đứa cháu ấy cũng đã làm linh mục…